
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Tên gọi "Cẩm Khê" có nghĩa là "Suối Gấm" (triết tự từ âm Hán-Việt, Cẩm có nghĩa là gấm, gấm vóc; Khê có nghĩa là khe, suối). Tên gọi này bắt nguồn từ đặc điểm của huyện có nhiều đồi núi thấp, hình thành nên hệ thống khe suối khá dầy đặc nhưng tương đối hiền hòa, mềm mại, tạo nên bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, đẹp như gấm hoa.
Từ rất xa xưa, vùng đất Cẩm Khê đã có người Việt cổ đến quần tụ, sinh sống. Năm 1962, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những chiếc thạp đồng có niên đại cách nay hơn 2000 năm tại xã Vạn Thắng (Đồng Lương ngày nay) đã chứng minh rõ nhận định này. Theo các tư liệu lịch sử, trong các triều đại phong kiến tự chủ trước thời Nguyễn, vùng đất Cẩm Khê là đơn vị hành chính dưới cấp châu, phủ; từng có các tên là Cấm Khê, Ma Khê, Hoa Khê.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), triều đình nhà Nguyễn chính thức thành lập huyện Cẩm Khê với 6 tổng, 41 xã. Từ đó đến trước cách mạng tháng 8/1945, quy mô huyện Cẩm Khê cơ bản ổn định và là một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Hưng Hóa rồi tỉnh Phú Thọ.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, Cẩm Khê là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Phú Thọ, song có hai lần thay đổi về quy mô và tên huyện do thực hiện việc “nhập huyện”, “tách huyện” theo các Quyết định của Chính phủ. Trong đó có 25 năm (từ 1977 đến 2002) là huyện Sông Thao
Ngày 17/12/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 828/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Phú Thọ. Theo đó, đối với huyện Cẩm Khê, sáp nhập 3 xã Đồng Cam, Phương Xá và Phùng Xá thành xã Minh Tân; sáp nhập các xã Thanh Nga, Sơn Nga, Sai Nga và thị trấn Sông Thao thành thị trấn Cẩm Khê; sáp nhập 3 xã Hiền Đa, Cát Trù và Tình Cương thành xã Hùng Việt. Sau sáp nhập (01/01/2020), toàn huyện Cẩm Khê còn 23 xã (gồm Cấp Dẫn, Chương Xá, Điêu Lương, Đồng Lương, Hùng Việt, Hương Lung, Minh Tân, Ngô Xá, Phú Khê, Phú Lạc, Phượng Vĩ, Sơn Tình, Tam Sơn, Tạ Xá, Thụy Liễu, Tiên Lương, Tùng Khê, Tuy Lộc, Văn Bán, Văn Khúc, Xương Thịnh, Yên Dưỡng, Yên Tập) và 01 thị trấn Cẩm Khê. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Cẩm Khê.

II. CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
-Cẩm Khê là huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì khoảng 50 km; là 1 trong 13 huyện, thành, thị của tỉnh Phú Thọ. Chiều dài toàn huyện khoảng 40 km, chạy dọc theo bờ hữu sông Thao theo hướng Tây Bắc- Đông Nam; chiều ngang bình quân 10 km.
-Về ranh giới địa lý, phía Đông huyện Cẩm Khê giáp huyện Thanh Ba (ranh giới tự nhiên là sông Hồng- đoạn này thường gọi là sông Thao), phía Tây giáp huyện Yên Lập, phía Nam giáp huyện Tam Nông (ranh giới tự nhiên là sông Bứa) và phía Bắc giáp huyện Hạ Hoà.
Huyện Cẩm Khê kết nối giao thông với tuyến đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai tại nút giao Sai Nga (IC10 - Km 79) và Quốc lộ 32C chạy dọc theo suốt chiều dài của huyện, Quốc lộ 70B chạy qua địa bàn huyện. Đường sắt: Gần ga đường sắt Phú Thọ (thị xã Phú Thọ) và ga đường sắt Chí Chủ (huyện Thanh Ba). Đường hàng không: cách sân bay quốc tế Nội Bài 80 km. Đường thủy: Có bến phà Tình Cương (Tỉnh lộ 313), bến đò Chí Chủ, bến đò Phương Xá và một số bến đò ngang nhỏ khác.
2. Địa hình
Huyện Cẩm Khê có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông và từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Độ cao so với mực nước biển trung bình từ 9 đến 15m.
Suốt theo chiều dài của huyện về phía Tây Nam có dải núi đồi thấp thuộc đoạn cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, chạy gần như song song với sông Hồng, độ cao trên 300m (có đỉnh tới trên 500m), là ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Cẩm Khê và Yên Lập. Sườn Đông Bắc của dãy núi này thuộc huyện Cẩm Khê. Từ chân dãy núi đến bờ sông Hồng là vùng đất giữa (đồng ruộng, ao hồ và đồi gò thấp xen kẽ nhau) và vùng bãi bồi do phù sa các con sông (chủ yếu là sông Thao) bồi đắp, phân bố suốt chiều dài từ thượng huyện đến hạ huyện.
3. Khí hậu, thủy văn
Cẩm Khê nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình khoảng 22,50C, cao nhất 38.50C, thấp nhất là 100C. Độ ẩm trung bình 87%, thấp nhất là 32% (tập trung vào các tháng 11, 12, 01 hàng năm). Lượng mưa bình quân vào khoảng 1874 mm/năm, lớn nhất là 2185mm, nhỏ nhất là 1241mm (ở mức trung bình của miền Bắc).
-Hàng năm huyện Cẩm Khê chịu ảnh hưởng từ 3 đến 5 cơn bão lớn và cũng thường xảy ra một vài trận bão lốc cục bộ. Các trận bão, lốc thường kèm theo mưa to đến rất to, có khả năng gây ngập úng trên diện rộng.
-Mùa Đông, Cẩm Khê chịu ảnh hưởng khá mạnh của các đợt gió mùa Đông bắc, nhiệt độ có khi hạ xuống mức xấp xỉ 100C, gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
4. Sông ngòi, hồ đầm
-Trên địa bàn huyện có hai con sông lớn chảy qua phần giáp ranh với các huyện bạn là sông Hồng (ranh giới phía Đông Bắc với huyện Thanh Ba, dài 40 km), sông Bứa (ranh giới phía Đông Nam với huyện Tam Nông, dài 6 km), trong đó sông Hồng là con sông quan trọng nhất hình thành nên vùng đồng ruộng phù sa cổ và hệ thống bãi bồi ven sông của huyện.
-Bên cạnh 2 con sông, trên địa bàn Cẩm Khê còn có nhiều ngòi lớn là ngòi Cỏ, ngòi Me, ngòi Vực Câu, ngòi Giành đổ ra sông Thao. Các con ngòi này đều bắt nguồn từ hệ thống khe suối của huyện Yên Lập và vùng đồi núi phía tây của huyện Cẩm Khê hợp thành, mỗi con ngòi chảy trên địa bàn huyện với chiều dài trung bình khoảng 10 km.
-Huyện Cẩm Khê có nhiều hồ, đầm khá lớn, diện tích hàng chục ha như hồ Ba Vực (xã Văn Bán); hồ Đập Ban (xã Tiên Lương); hồ Đập Thìn (xã Cấp Dẫn); hồ Vực Si (xã Sơn Tình); hồ Dộc Gạo (xã Điêu Lương); đầm Meo (trên địa bàn các xã Yên Dưỡng, Văn Khúc)....
Mật độ sông, ngòi và các hồ, đầm được phân bố khá đồng đều trên địa bàn huyện là một tiềm năng lớn cho phát triển giao thông đường thủy; phục vụ tưới, tiêu cho nông nghiệp; nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, do lượng mưa tập trung theo mùa, cùng với địa hình hẹp và dốc nên chế độ nước của các con sông, ngòi, hồ, đầm của huyện khá thất thường. Trong mùa mưa, các sông ngòi có lưu lượng tăng gấp hàng chục lần so với mùa khô nên thường gây hậu quả lũ lụt nặng nề.
5. Động, thực vật:
Cẩm Khê là vùng đất có hệ động, thực vật khá phong phú, nhiều loại có giá trị kinh tế cao.
Trước đây, Cẩm Khê từng nổi tiếng với nhiều rừng cọ bạt ngàn, cao vút, đem lại nhiều sản phẩm có giá trị. Ngày nay, rừng cọ vẫn còn nhưng đã thưa thớt dần. Để thay thế rừng cọ, Nhà nước đã đầu tư, khuyến khích nhân dân trồng xen các loại cây lấy gỗ lâu năm; một hệ sinh thái mới đang hình thành với nhiều triển vọng. Cây chè cũng là loại cây trồng phổ biến trên đất đồi, đem lại nguồn thu nhập quan trọng cho người dân Cẩm Khê.
Hiện nay, bên cạnh khuyến khích, phát huy các loại cây trồng, vật nuôi truyền thống, Cẩm Khê cũng đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển nhiều loại giống, cây trồng vật nuôi mới như lúa, ngô, lạc, đậu tương… lai; bò lai Sind, lợn siêu nạc, gà siêu thịt, vịt siêu trứng, các loại cá giống mới năng suất cao và chất lượng tốt, nhất là tôm càng xanh đang phát triển mạnh ở xã Văn Khúc.
6. Đất đai, thổ nhưỡng.
*Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Cẩm Khê là 234,55 km2, chiếm 6,7% diện tích của toàn tỉnh Phú Thọ.
*Về thổ nhưỡng, Cẩm Khê có 2 loại đất phổ biến là đất phù sa không được bồi đắp hàng năm và đất Feralit nâu vàng, vàng đỏ trên núi.
-Diện tích đất phù sa không được bồi hàng năm hiện nay được sử dụng để trồng lúa và một số cây ngắn ngày khác, tạo ra những cánh đồng tươi tốt ở các xã nằm dọc sông Hồng.
-Đất Feralit nâu vàng, vàng đỏ trên núi chủ yếu là các đồi, núi thấp ở phía tây, tây bắc của huyện, thích hợp cho phát triển cây lâu năm và trồng rừng.
Ngoài 2 loại đất chủ yếu nói trên, Cẩm Khê còn có một số loại đất khác vẫn đang được sử dụng để trồng lúa và hoa màu, nhưng do đặc điểm khí hậu, địa hình nên các loại đất này thường bị bị úng nước, lầy thụt hoặc bị bạc màu, cần phải cải tạo mới khai thác có hiệu quả.
Với đặc điểm về đất đai, thổ nhưỡng như trên, huyện Cẩm Khê có nhiều thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt là cây nông nghiệp hàng năm và cây lâm nghiệp.
7. Khoáng sản:
Trên địa bàn huyện Cẩm Khê có 5 mỏ khoáng sản và 19 điểm có quặng. Trữ lượng các mỏ và điểm quặng trên địa bàn chưa được điều tra đánh giá chính xác, chỉ dừng lại ở mức dự báo. Các khoáng sản chủ yếu đã được các nhà khoa học phát hiện gồm than nâu, quặng sắt, quặng quarzit, cao lanh, đất sét làm gốm và vật liệu xây dựng, cát xây dựng, đá vôi...
Nhìn chung, các tài nguyên khoáng sản trên địa bàn vẫn trong tình trạng chưa khai thác. Đây là một trong những nguồn lực đáng kể cho phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản nói riêng trên địa bàn trong tương lai.
8. Cảnh quan thiên nhiên:
Cẩm Khê là huyện vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng; có sông Hồng chạy dọc ven huyện về phía Đông Bắc, sông Bứa về phía Tây Nam; có dãy núi thấp thuộc dải Hoàng Liên Sơn ở phía Tây nên cảnh quan thiên nhiên đa dạng và phong phú. Toàn huyện có tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là hơn 6.731 ha. Trong đó có hơn 728 ha rừng tự nhiên; hơn 1.212 ha rừng phòng hộ; hơn 3.982 ha rừng sản xuất; 1.537 ha rừng ngoài quy hoạch. Do có độ che phủ rừng cao và diện tích đất lâm nghiệp có rừng nhiều nên môi trường không khí trên địa bàn khá trong lành.
Địa bàn Cẩm Khê tuy không có danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhưng cũng có một số địa danh như hồ Ba Vực ở xã Văn Bán, căn cứ Tiên Động và đền thờ Ngô Quang Bích ở xã Tiên Lương; chiến khu Vạn Thắng, nhà tưởng niệm nhà thơ Bút Tre xã Đồng Lương,...có cảnh quan thiên nhiên khá đẹp, là những điểm có tiềm năng để phát triển du lịch lịch sử-văn hóa-tâm linh trong tương lai.
III. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ VÀ XÃ HỘI
1. Dân cư
Từ nửa đầu thế kỷ XX đến nay, dân số Cẩm Khê phát triển khá nhanh. Năm 1927, toàn huyện có 36.184 người, đến cuối năm 2021 là 141.911 người.
Toàn huyện Cẩm Khê hiện nay có tới trên 40 dòng họ, đại đa số là người dân tộc Kinh. Có một số rất ít người các dân tộc khác như Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao, Cao Lan...lấy vợ, lấy chồng là người Cẩm Khê về sinh sống trên địa bàn.
Về tôn giáo, một bộ phận đồng bào Cẩm Khê có đạo, trong đó tín đồ đạo Phật chiếm xấp xỉ 5%, giáo dân đạo Công giáo chiếm 26,3% dân số. Cẩm Khê là huyện có tỷ lệ đồng bào theo đạo Công giáo cao nhất tỉnh; trong đó có 5 xã công giáo toàn tòng là Phượng Vỹ, Ngô Xá, Tạ Xá, Yên Tập, Hương Lung.
2. Truyền thống lịch sử, văn hóa
-Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người dân Cẩm Khê đã hình thành nên nhiều truyền thống tốt đẹp, lâu đời như: truyền thống cần cù, sáng tạo; truyền thống đoàn kết, nhân ái, nhân văn; truyền thống hiếu học, yêu chuộng văn học, nghệ thuật; truyền thống yêu nước, đấu tranh chống ngoại xâm…
-Trong các cuộc đấu tranh chống ngoại bang xâm lược, đô hộ, nhân dân Cẩm Khê đã thể hiện rõ tinh thần kiên cường bất khuất. Người dân Cẩm Khê sẵn sàng tập hợp dưới các ngọn cờ chính nghĩa để đấu tranh vì độc lập, tự do; nhiều người đã trở thành những thủ lĩnh giỏi trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.
Cẩm Khê từng là căn cứ địa, là điểm diễn ra những sự kiện oanh liệt chống ngoại xâm như: các nữ tướng hợp binh ở Vân Bán Trang (các xã Văn Bán, Tam Sơn ngày nay) dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán; căn cứ Tiên Động (xã Tiên Lương) của Tướng quân Ngô Quang Bích, cứ điểm phòng thủ Hố Trò (xã Đồng Lương) của cụ Đề Kiều trong phong trào Cần Vương chống Pháp.
*Trong phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cẩm Khê tiếp tục là một "Địa chỉ đỏ" với nhiều sự kiện nổi bật: thành lập chi bộ Đảng Cát Trù- Thạch Đê- bí danh là chi bộ Đọi Đèn. Đây là 1 trong 4 chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Phú Thọ. Chiến khu Vạn Thắng (Đồng Lương) được thành lập tháng 6/1945; lực lượng của chiến khu là 1 trong những mũi nhọn vũ trang tham gia giành chính quyền tỉnh Phú Thọ về tay nhân dân (25/8/1945); chiến thắng Chủ Chè vang dội năm 1949.
IV. TÌNH HÌNH KINH TẾ- XÃ HỘI, AN NINH- QUỐC PHÒNG
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Cẩm Khê luôn đoàn kết, nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Toàn huyện đã có bước phát triển vượt bậc về xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, làm thay đổi diện mạo chung của huyện, tạo tiền đề cho xây dựng nông thôn mới. An ninh lương thực đảm bảo vững chắc; tiểu thủ công nghiệp-dịch vụ có nhiều khởi sắc. Sự nghiệp văn hoá- xã hội có nhiều đổi mới, phát triển. Công tác xoá đói, giảm nghèo đạt được kết quả tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hoá theo hướng bền vững.
Tuy nhiên, Cẩm Khê vẫn là một huyện nghèo, cơ cấu kinh tế đã và đang có sự chuyển dịch nhưng nông nghiệp vẫn là chủ đạo nên tổng giá trị tăng thêm hàng năm chưa cao; mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với bình quân toàn tỉnh; đời sống nhân dân vẫn còn có khó khăn. Do là một huyện miền núi, đông dân, điểm xuất phát thấp nên đời sống văn hoá, tinh thần còn có những mặt hạn chế, đặc biệt là nhân dân ở các xã vùng sâu, vùng xa trung tâm huyện. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, viễn thông, sự du nhập của văn hóa ngoại lai đã ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống, thị hiếu văn hóa của một bộ phận nhân dân.
1. Tình hình phát triển Kinh tế
Cơ cấu kinh tế của huyện tiếp tục có chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Năm 2021, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 34% (giảm 3,8% so với năm 2020). Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng đạt 26,6% (tăng 3,5% so với năm 2020). Thương mại - dịch vụ đạt 39,4% (tăng 0,3% so với năm 2020).
*Nông, lâm nghiệp, thủy sản:
Nhìn chung, sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản của huyện phát triển ổn định và đạt được kết quả khá toàn diện, năng suất và sản lượng tăng ở mức khá.
+Chăn nuôi gia súc, gia cầm duy trì ổn định; quy mô đàn lợn, gà, vịt, bò tăng mạnh do chăn nuôi theo hướng tập trung, quy mô lớn.
+Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm hơn 13.767 ha. Trong đó: Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt hơn 8.347 ha. Năng suất lúa bình quân hàng năm ước đạt 57,29 tạ/ha, sản lượng ước đạt hơn 37.883 tấn; năng suất ngô ước đạt 46,8 tạ/ha, sản lượng ước đạt 8.125 tấn.
+Về lâm nghiệp: Toàn huyện Cẩm Khê có tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là hơn 6.731 ha. Trong đó có hơn 728 ha rừng tự nhiên; hơn 1.212 ha rừng phòng hộ; hơn 3.982 ha rừng sản xuất; 1.537 ha rừng ngoài quy hoạch. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được triển khai tích cực. Độ che phủ rừng đạt 23,6%. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 44.489 m3/năm.
+Chương trình hỗ trợ phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa được triển khai có hiệu quả, nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao được triển khai và nhân rộng như mô hình nuôi ốc dạ trên ruộng 1 vụ, diện tích 1.000 m2 tại xã Văn Bán. Diện tích nuôi trồng các loại thủy sản giá trị như: cá chép đỏ, tôm càng xanh, ốc nhồi,... được duy trì và nhân rộng ra trên 12 xã, thị trấn với tổng diện tích trên 200 ha. Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ước đạt 1.864 ha, sản lượng ước đạt hơn 7.602 tấn.
Hiện nay sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển khá toàn diện. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển các sản phẩm đặc sản, xây dựng chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện gắn với chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Chương trình hỗ trợ phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa được triển khai có hiệu quả, nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao được triển khai và nhân rộng.
Năm 2021, tỷ lệ lao động trong nông, lâm nghiệp, thủy sản còn 51,6% (giảm 3,4% so với cùng kỳ). Giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất canh tác nông lâm nghiệp đạt 212,5 triệu đồng.
*Tiểu thủ công nghiệp:
Tiểu thủ công nghiệp, phải kể đến nghề làm nón thị trấn Cẩm Khê (Sai Nga cũ) với những sản phẩm nón trắng bền, đẹp. Ngoài ra, Cẩm Khê còn nổi tiếng bởi các nghề như: nghề mộc Dư Ba, nghề nuôi cá chép đỏ Thủy Trầm (Tuy Lộc); nghề nuôi tằm và trứng tằm giống lá sắn Thống Nhất (Đồng Lương); nghề đan lát ở Ngô Xá; nghề làm bún bánh Thạch Đê (Hùng Việt); sản xuất chè Đá Hen (Đồng Lương)... góp phần làm tăng thu nhập và thu hút lực lượng lao động nhàn rỗi trong huyện. Ở Cẩm Khê hiện nay đang phát triển nghề làm gạch xây dựng, trong huyện hiện nay có nhiều nhà máy gạch tuynel sản phẩm chất lượng cao.
*Công nghiệp:
Cụm công nghiệp thị trấn Cẩm Khê có diện tích 100ha nằm phía đông của thị trấn Cẩm Khê, gần quốc lộ 32C, đã được đầu tư hệ thống điện, nước, cây xăng, mặt đường được thảm nhựa thuận tiện cho sản xuất, lưu thông. Hiện tại có 01 doanh nghiệp nước ngoài (công ty TNHH YIDA Việt Nam) đầu tư sản xuất giai đoạn 3 với tổng số vốn 1228 tỷ đồng
Khu Công nghiệp Cẩm Khê có tổng diện tích quy hoạch 450ha, cách trung tâm huyện Cẩm Khê 3 km, nằm trên địa bàn thị trấn Cẩm Khê và xã Xương Thịnh; có đường giao thông kết nối với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tại nút giao IC10, Quốc lộ 32C, 70B. Hiện tại đã có 17 doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh.
*Thương mại, dịch vụ:
Các cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ trên địa huyện phát triển nhanh và rộng khắp; hoạt động bán buôn, bán lẻ duy trì ổn định, phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân dân. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2021 đạt 1.278 tỷ đồng. Hoạt động vận tải tiếp tục phát triển nhanh, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1.510 nghìn tấn/năm.
Năm 2021, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 221,75 tỷ đồng, vượt 122,8% so với dự toán, tăng 107,2% so với cùng kỳ.
2. Kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi
*Hệ thống giao thông:
+ Giao thông đường thủy: tuyến sông Hồng là chính (có thể ngược lên Yên Bái; ngang sang Thanh Ba, Thị xã Phú Thọ; xuôi về Tam Nông, Lâm Thao, Việt Trì).
+ Hệ thống giao thông đường bộ: Tổng chiều dài hệ thống đường bộ trong địa bàn huyện Cẩm Khê khoảng 1046 km. Trong đó:
- Quốc lộ: Hiện tại có tuyến quốc lộ 32C chạy dọc huyện với độ dài 31 km. Đường cao tốc Hà Nội- Lào Cai chạy qua địa bàn Thị trấn Cẩm Khê, Minh Tân, Tuy Lộc với tổng chiều dài 10,7 km.
- Tỉnh lộ: Có 3 tuyến là 313, 313B, 321C với tổng chiều dài 60 km.
- Đường do huyện quản lý gồm 12 tuyến với tổng chiều dài 68,8 km.
Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa năm 2021 đạt 75,4%, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2020. Nhìn chung, mạng lưới giao thông đường bộ hiện nay tại huyện Cẩm Khê đã đảm bảo thuận tiện cho việc lưu thông hàng hoá, hành khách đi ngoại huyện.
*Hệ thống thuỷ lợi: Trên địa bàn huyện hiện có 80 công trình hồ đập, 26 trạm bơm điện và trên 100 trạm bơm dã chiến. Trong đó, có 3 hồ chứa lớn (hồ Đát Dội – xã Phượng Vỹ; hồ Ba Vực – xã Văn Bán; hồ Dộc Gạo – xã Điêu Lương); 5 hồ chứa vừa (hồ Đập Ban – xã Tiên Lương; hồ Đầm Thìn - xã Cấp Dẫn, hồ Nhà Chắp - xã Phú Khê, hồ Đá Trắng – xã Văn Bán; hồ Đồng Ba – xã Hương Lung), còn lại chủ yếu là các hồ đập nhỏ nằm rải rác trên địa bàn huyện.
Các công trình thủy lợi hiện nay được giao cho các đơn vị thủy nông có đủ năng lực theo quy định vận hành, khai thác làm dịch vụ công ích thủy lợi gồm có Xí nghiệp Thủy nông Cẩm Khê và các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn các xã. Hàng năm, các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu cho khoảng 4.900ha.
3. Văn hóa - xã hội
*Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo tiếp tục được quan tâm phát triển, đảm bảo chất lượng. Quy mô trường, lớp, học sinh được sắp xếp hợp lý, chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn tiếp tục duy trì vững chắc. Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch giáo dục và hoàn thành chương trình giáo dục hàng năm. Đến hết năm 2021, đã có 76/90 trường đạt chuẩn Quốc gia.
*Sự nghiệp Y tế, công tác bảo vê,̣ chăm sóc sức khỏe Nhân dân đươc̣ chú trọng. Công tác khám chữa bệnh được quan tâm, tinh thần, thái độ phục vụ và chất lượng chăm sóc người bệnh; vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng cao. Tăng cường quản lý hoạt động y dược tư nhân, các cơ sở y tế ngoài công lập, các cửa hàng bán thuốc tân dược, phòng khám đông y...hoạt động theo đúng quy định.
*Công tác an sinh xã hội tiếp tục được triển khai tích cực; chương trình giảm nghèo được chú trọng. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được quan tâm chỉ đạo; tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt trên 98%. Quan tâm đảm bảo chế độ, chính sách hỗ trợ các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội, các đối tượng yếu thế, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, cải thiện mức sống.
*Lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể thao tiếp tục phát triển. Hiện nay toàn huyện có 257 khu dân cư, trong đó số khu dân cư đạt danh hiệu khu dân cư văn hóa chiếm 89,1%; có 22,2% khu dân cư đạt chuẩn văn hóa 05 năm liên tục.
Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch luôn được thực hiện tốt. Công tác thông tin, tuyên truyền được triển khai có hiệu quả phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương. Hệ thống Đài Truyền thanh từ huyện đến cơ sở được quan tâm đầu tư, nâng cấp. Chất lượng các chương trình phát thanh, phát thanh có hình được nâng cao. Ngày 01/12/ 2021, sáp nhập Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Du lịch với Đài Truyền thanh huyện thành Trung tâmVăn hóa- Thể thao -Du lịch và Truyền thông huyện Cẩm Khê.
* Lĩnh vực lao động, việc làm; thương binh, xã hội.
-Toàn huyện có 12 người tham gia cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa đang hưởng chế độ.
-Tổng số Mẹ VN anh hùng: 62; số còn sống đang hưởng chế độ: 02.
-Số Liệt sỹ: 1788.
-Số Thương binh đang hưởng chế độ: 763.
-Số bệnh binh đang hưởng chế độ: 388.
-Số người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam: 288; số người bị nhiễm theo (gián tiếp): 253; số người đang được hưởng chế độ trợ cấp: 541.
-Tổng số nhân khẩu được hưởng các chính sách ưu đãi đối với người có công (thân nhân liệt sỹ, thương binh...): 2561 người.
Các chính sách an sinh xã hội, chương trình xoá đói, giảm nghèo được triển khai đồng bộ; các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, hoạt động nhân đạo từ thiện được quan tâm. Thực hiện tốt chế độ đối với người có công thông qua trợ cấp, hỗ trợ bảo hiểm y tế, hỗ trợ vay vốn phục vụ sản xuất...
Lao động, việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 59,5%, trong đó tỷ lệ đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chiếm 29,5%.
4. An ninh- Quốc phòng
-Trong những năm vừa qua, huyện đã tập trung xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; phối hợp nắm tình hình và xử lý tốt các tình huống, không để bị động bất ngờ. Tổ chức tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ bảo đảm theo quy định. Công tác huấn luyện, diễn tập, luyện tập, giáo dục quốc phòng được triển khai đúng yêu cầu, kế hoạch. Tăng cường quản lý đất quốc phòng, đảm bảo tốt các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,
-Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, các biện pháp kiềm chế gia tăng tội phạm hình sự, tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội được triển khai tích cực. Tiếp tục đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Tăng cường công tác quản lý hoạt động xuất nhập cảnh có liên quan đến người nước ngoài, các cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, về phòng cháy chữa cháy.
------------------------------